Biến việc học thành sự say mê

Tin tôi đỗ đại học nhanh chóng lan đi khắp xã. Hồi đó, ở một xã nghèo nơi biên giới phía Tây tổ quốc, hai từ “đại học” còn xa lạ lắm.

Tôi nhanh chóng trở thành “ngôi sao” của xã khi lập được kỳ tích này. Với riêng tôi, đỗ đại học là một cuộc cách mạng thành công. Từ một học sinh trung bình không được ôn thi bài bản ở các lớp luyện thi, phải vừa học vừa lao động giúp gia đình, tôi đã đỗ đại học với số điểm ấn tượng. Không cần đến 5 điểm ưu tiên khu vực, tôi vẫn thừa điểm đỗ vào tất cả các khoa của Đại học Sư phạm Hà Nội khóa thi năm 2001.

Học đại học là ước mơ lớn nhất của bất cứ ai muốn vào đời bằng con đường học tập. Tôi cũng không ngoại lệ, nhưng tôi biết chỉ dám mơ ước thôi chưa đủ, cái quan trọng hơn là phải tìm đường để thực hiện ước mơ. Là con cả trong một gia đình nông dân nghèo, tôi vừa lao động vừa tranh thủ tự ôn luyện, tích góp kiến thức như con ong chăm chỉ, mưa dầm thấm lâu.

Việc đầu tiên tôi làm là vạch kế hoạch ôn thi. Căn cứ vào khối lượng kiến thức từng môn, tôi tính toán để khoán lượng kiến thức phải học theo tháng, tuần, rồi theo ngày, với thời gian biểu phù hợp điều kiện của mình. Tôi nghĩ lợi thế của mình là sự chăm chỉ nên tôi ôn luyện theo tinh thần chậm mà chắc với một kế hoạch khoa học vừa bảo đảm được thời gian học tập, vừa đảm bảo thời gian lao động giúp gia đình, và nghỉ ngơi giữ gìn sức khoẻ.

Tôi vào cuộc khá sớm, cách khoảng một năm trước kỳ thi đại học. Tôi xác định sẽ ôn từ cơ bản đến mở rộng nên trước tiên, tôi học kiến thức cơ bản trong chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. “Người thầy” tôi theo khi đó là sách giáo khoa kết hợp với sách chuẩn kiến thức kỹ năng cho từng môn học.

Chỉ được ngồi vào bàn học lúc sáng sớm, chiều muộn và tối khuya nên tôi dùng thời gian đó để soạn đề cương ôn thi căn bản cho từng môn. Trong quá trình soạn, tôi cố gắng kết hợp tay viết đến đâu, đọc nhẩm để ghi nhớ đến đó. Sau đó, tôi viết lại nội dung trong đề cương thành sơ đồ dàn ý chỉ với các từ khóa và ý chính ra những tờ giấy rời. Sơ đồ tôi lập đảm bảo vừa bao quát nội dung, vừa thể hiện tính logic, hệ thống của vấn đề theo trình tự lớn đến nhỏ, từ ý chính đến ý phụ để dễ hiểu, dễ nhớ mà không bị lệ thuộc vào câu từ trong sách vở.

Tôi luôn mang bên mình những tờ giấy đó để vừa lao động chân tay vừa ghi nhớ lặp đi lặp lại trong đầu, nếu quên, tôi sẽ mở ra xem lại. Tôi nghĩ không nhất thiết cứ phải được ngồi vào bàn học mới là học vì tư duy suy nghĩ ở trong đầu mình. Do vậy phần lớn thời gian học của tôi là học trong khi lao động mà vẫn tập trung, hiệu quả cao.

Việc học có thể biến thành niềm say mê. Ảnh do tác giả cung cấp

Tôi đã cố gắng tranh thủ học ôn ở mọi nơi, mọi lúc. Song, vẫn có ngày tôi không thể hoàn thành được kế hoạch đề ra. Nhiều lúc vất vả và mỏi mệt làm tôi muốn bỏ cuộc giữa chừng. Cảm giác khi đó thật tồi tệ, buồn bực và bất mãn với chính mình. Tuy nhiên, tôi không đầu hàng. Tôi có thể trì hoãn việc ăn, ngủ, tạm gác những việc khác chứ nhất quyết không bỏ dở kế hoạch thực hiện ước mơ.

Ngày đó, xã tôi chưa có điện nên tôi học thâu đêm dưới ngọn đèn dầu khơi to, bằng tất cả trí tuệ, sức lực và khát khao mãnh liệt được bước chân vào giảng đường đại học. Tôi thực sự đã tìm được niềm vui trong những ngày ôn thi. Việc học với tôi đã trở thành sự say mê.

Khi đã nhớ được từng chương, từng bài, tôi lại dùng sơ đồ dàn ý để củng cố, hệ thống hóa kiến thức bằng những công cụ đặc biệt: phấn trắng viết ra sân hoặc bút bi ghi trên những tờ lịch to, có lúc chỉ đơn giản là cây que vạch trên nền đất. Tôi đặc biệt hứng thú với phương pháp học này vì nó không chỉ giúp tôi thấy rõ nội dung được triển khai từ ý chính mà còn nhìn rõ mối quan hệ giữa các ý nên việc ghi nhớ nhanh và mạch lạc hơn, không bị chồng chéo, nhầm lẫn giữa những đơn vị kiến thức. Nhờ đó, tôi đã ghi nhớ sâu sắc bản chất logic của vấn đề với cả ba môn thi. Mãi sau này, khi xem một chương trình trên VTV1, tôi mới biết phương pháp ôn thi khi đó được gọi bằng tên khoa học là “bản đồ tư duy”.

Từ khi lập được một kế hoạch phù hợp và lựa chọn được phương pháp ôn luyện hiệu quả, tôi thấy mình đã có một tấm “bản đồ”. Như một người đi đường đã biết đích và phương hướng, tôi tin mình sẽ thành công!

Với sự kiên trì và cố gắng không mệt mỏi, tôi đã ôn luyện xong toàn bộ nội dung cơ bản trong chương trình trước kỳ thi đại học khoảng một tháng. Kể từ đó, tôi mới kết hợp ôn với đọc thêm sách tham khảo. Mỗi khi đọc sách tham khảo, tôi nhớ rất nhanh vì trong đầu đã đối chiếu so với đề cương. Thậm chí, các bài giảng còn được mở rộng, khơi sâu thêm. Tôi dành thời gian để làm các đề văn, bài tập địa lý và tham khảo đề thi, đáp án. Ngoài ra, tôi cũng rèn luyện kỹ năng làm bài như cách: mở, kết bài, triển khai, cách chuyển ý… Tôi tự mình bấm thời gian làm các đề thi như thi thật.

Ngày đi thi, tôi xin bố mẹ cho đi một mình để đỡ tốn kém. Những ngày ở Thủ đô chờ thi, tôi chỉ học nhẹ nhàng và dành nhiều thời gian thư giãn, giải trí để phục hồi trí nhớ và tăng cảm hứng sáng tạo.

Tôi biết đi thi ai cũng muốn đỗ. Nhưng tấm vé vào cổng trường đại học thì rất ít và chỉ dành cho những người không chỉ có vốn kiến thức vững chắc mà còn phải biết cách làm bài thi tốt.

Sáng đầu tiên thi môn địa lý, nhận đề thi, tôi đọc một lượt tất cả các câu hỏi, căn cứ vào thang điểm, tôi chia luôn thời gian cho từng câu và cho phép được dao động 5 phút. Tôi chọn câu dễ làm trước, sau khi đọc kỹ đề, tôi phác nhanh dàn ý, sau đó mới làm bài trên giấy thi.

Đối với mỗi câu, tôi đều trả lời có phần mở, thân và kết bài rõ ràng. Các ý trong từng phần được triển khai tường minh, logic. Làm xong bài thi, tôi cẩn thận đọc lại và soát từng lỗi chính tả, dấu chấm, dấu phẩy… hết thời gian mới ra khỏi phòng thi. Cả ba môn thi, tôi đều áp dụng những kỹ năng cơ bản đó.

Với cách ôn thi và làm bài thi như thế, tôi đã đỗ thủ khoa khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, kỳ thi tuyển sinh năm 2001 với tổng 22,5 điểm. Tôi đã mở được cánh cổng trường đại học mình mơ ước bằng mật mã: “quyết tâm – kế hoạch và phương pháp ôn luyện khoa học – sự kiên trì khổ luyện – cách làm bài thi tốt”.

Nguồn: vnexpress.net

Cùng chuyên mục